Dịch vụ
Tìm kiếm
lịch tàu Book chuyến Tuyển dụng Liên hệ

Sản lượng than của Việt Nam đã giảm tháng thứ 4 liên tiếp trong tháng 7 xuống dưới 4,0 triệu tấn nhưng cao hơn một chút so với cùng tháng 7 năm 2022, theo dữ liệu mới nhất từ Tổng cục Thống kê (GSO).

Số liệu thống kê đã chỉ ra rằng, quốc gia Đông Nam Á này đã sản xuất 3,96 triệu tấn than trong tháng 7, tăng 0,84% từ mức 3,93 triệu tấn một năm trước đây nhưng giảm 8,57% so với mức 4,33 triệu tấn trong tháng 6.

Từ tháng 1 đến tháng 7 năm nay, sản lượng than tích lũy của Việt Nam lên tới 28,97 triệu tấn, thấp hơn 4,45% so với mức 30,32 triệu tấn của năm ngoái.

Sản lượng than của nước này dự kiến đạt mức 3,95 triệu tấn trong tháng 8, tăng 5,92% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng giảm 0,27% so với tháng trước. Điều này làm tăng tổng sản lượng lên 32,92 triệu tấn trong tám tháng đầu năm, giảm 3,32% so với một năm trước đó.

Phần lớn than sản xuất trong nước ở Việt Nam được sử dụng cho sản xuất điện địa phương, sản xuất xi măng và các mục đích sản xuất công nghiệp khác.

Nguồn: sxcoal.com 

Biên dịch: Vincent Nguyen

Có thể bạn quan tâm

Ngày 29/5: Lãi suất tiền gửi tiếp tục giảm sâu, lãi suất cho vay bắt đầu đồng loạt giảm mạnh
Ngày 29/5: Lãi suất tiền gửi tiếp tục giảm sâu, lãi suất cho vay bắt đầu đồng loạt giảm mạnh 02/06/2023

Nhiều ngân hàng giảm mạnh cả lãi suất tiền gửi kỳ hạn ngắn và lãi suất kỳ hạn dài, mức điều chỉnh tới 0,5-0,7 điểm %. Lãi suất cho vay cũng sẽ bắt đầu giảm mạnh từ tuần này.

Việt Nam thay thế một khối lượng đáng kể hàng container xuất khẩu sang Mỹ từ Trung Quốc
Việt Nam thay thế một khối lượng đáng kể hàng container xuất khẩu sang Mỹ từ Trung Quốc 02/06/2023

Các mô hình thương mại toàn cầu đang được định hình lại với tốc độ nhanh chóng, với xu hướng đưa hoạt động sản xuất trở về chính quốc (reshoring) hiện đang làm giảm rõ ràng sự thống trị của Trung Quốc trong các giao dịch container xuyên Thái Bình Dương.

Sea World bán tàu chở dầu cho 1 doanh nghiệp Việt Nam
Sea World bán tàu chở dầu cho 1 doanh nghiệp Việt Nam 24/03/2023

Sự chênh lệch lớn giữa nhu cầu năng lượng to lớn do nền kinh tế định hướng của Trung Quốc và mức dự trữ tối thiểu dầu và khí đốt trong nước của nước này có nghĩa là nước này là động lực chính của ‘siêu chu kỳ′ hàng hóa 2000-2014, được đặc trưng bởi xu hướng giá cả hàng hóa liên tục tăng.